Lịch sử công tác bảo đảm hậu cần ở Việt Nam Bảo_đảm_hậu_cần_quân_sự_Việt_Nam

Trước Cách mạng tháng Tám

Bảo đảm hậu cần ở Việt Nam gắn liền với sự phát triển của Quân đội và sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Thời kì phương Bắc đô hộ, việc bảo đảm hậu cần cho các cuộc khởi nghĩa chủ yếu dựa vào dân làng và gia đình nghĩa quân, kết hợp với tự sản xuất lương thực, thực phẩm của nghĩa quân để bảo đảm. Thời kì đấu tranh giành độc lập và bảo vệ nhà nước phong kiến, việc bảo đảm hậu cần chủ yếu dựa vào nhà nước và nhân dân. Các triều đại phong kiến Việt Nam sử dụng nhiều hình thức, phương pháp nhằm bảo đảm hậu cần kịp thời, hiệu quả nhất cho Quân đội đánh địch. Từ việc chủ động dự trữ lương thực, thực phẩm trong nhân dân đến việc sử dụng quân lính về quê làm ruộng, thực hiện chế độ “ngụ binh ư nông” để tích lũy lương thực, thực phẩm. Trong giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các đội viên tự vệ đã biết tự sản xuất và dựa vào sự tiếp tế của nhân dân để hoạt động. Điển hình là các đội du kích Bắc Sơndu kích Nam Kì đã tự trang bị vũ khí và dựa vào nhân dân cung cấp lương thực, thực phẩm trong suốt quá trình khởi nghĩa.

Trong Kháng chiến chống Pháp

Trong Kháng chiến chống Pháp, việc bảo đảm hậu cần Quân đội do lực lượng hậu cần Quân đội đảm nhiệm cùng với sự chi viện đắc lực của hậu cần nhân dân địa phương và hậu cần cơ sở. Về bảo đảm vật chất, việc cung ứng mọi nhu cầu của Quân đội chủ yếu vẫn dựa vào sự đóng góp của nhân dân. Riêng về thuế nông nghiệp 1951-1954, chỉ tính từ Liên khu 5 trở ra đã thu được 1.322.620 tấn thóc, cộng với thuế nông nghiệp thu bằng tiền ở các vùng còn bị địch tạm chiếm khoảng 1.500.000 tấn thóc. Dân công phục vụ chiến dịch (chỉ tính các chiến dịch lớn) đã có trên 1.700.000 lượt người tham gia, với trên 48.000.000 ngày công. Hậu cần QĐ đã tổ chức tiếp nhận lực lượng, phương tiện, vật chất của nhân dân để bảo đảm cho Quân đội đánh giặc. Theo quy mô và thời gian mở chiến dịch, khối lượng bảo đảm vật chất ngày càng lớn. Trong Chiến dịch Sông Thao (1949), khối lượng bảo đảm vật chất 164 tấn; Chiến dịch Thượng Lào (1953); Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954). Trong các loại vật chất bảo đảm cho chiến dịch, lương thực, thực phẩm chiếm khối lượng lớn nhất; trong nhiều chiến dịch, lương thực, thực phẩm chiếm trên 95% tổng khối lượng vật chất.

Về bảo đảm quân y, chiến dịch quy mô ngày càng lớn, tính chất cuộc chiến càng quyết liệt thì số lượng thương binh trong chiến dịch ngày càng nhiều. Trong Chiến dịch Sông Thao mới có 243 thương binh; Chiến dịch Tây Bắc là 2.535 thương binh; đến Chiến dịch Điện Biên Phủ tăng lên 8.458 thương binh (không kể 1.234 thương binh trong thời kì chuẩn bị và trong các đợt tiến công lên Lai Châu, Thượng Lào). Tổ chức quân y chiến dịch ngày càng phát triển để đáp ứng yêu cầu tác chiến; ngay từ những trận chiến đấu đầu tiên của cuộc kháng chiến, quân y đã tổ chức các đội phẫu thuật bố trí ở tuyến sau chiến đấu của bộ đội. Trong các chiến dịch trước năm 1950, quân y thường tổ chức 2 tuyến: đội phẫu thuật ở phía trước và bệnh viện dân y (hoặc quân y) ở phía sau. Trong một số chiến dịch, ta đã tổ chức bệnh viện mặt trận làm tuyến sau cho các đội phẫu thuật; đến năm 1951, các đội điều trị chiến dịch lần đầu được tổ chức. Các đội điều trị chiến dịch trực tiếp chi viện hoặc làm tuyến sau cho quân y các đại đoàn. Việc chuyển thương binh từ hỏa tuyến về đội phẫu thuật trung đoàn hầu hết do dân công hỏa tuyến đảm nhiệm. Đến Chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến đấu ở phía trước diễn ra ác liệt, việc chuyển thương từ hỏa tuyến về tuyến quân y trung đoàn do các đội tải thương của các trung đoàn đảm nhiệm; dân công chỉ chuyển thương binh từ các đội phẫu thuật trung đoàn về tuyến sau.

Về công tác vận tải, hầu hết các chiến dịch trong Kháng chiến chống Pháp sử dụng vận tải bộ và vận tải bằng phương tiện thô sơ là chủ yếu; vận tải bằng phương tiện cơ giới chỉ ở tuyến hậu phương; riêng Chiến dịch Điện Biên Phủ, vận tải cơ giới mới được sử dụng chủ yếu; nhưng vận tải bộ vẫn được sử dụng nhiều trên tất các tuyến của hậu cần chiến dịch. Trong Kháng chiến chống Pháp, việc Bảo đảm hậu cần quân đội có bước phát triển mới. Về bảo đảm vật chất, trong các chiến dịch nhỏ (lực lượng trên dưới 1.000 người, thời gian chiến dịch từ khi chuẩn bị đến khi kết thúc khoảng 3-4 tháng), lượng vật chất tiêu thụ nhìn chung không lớn (vd: Chiến dịch Đồng Xoài (1965); Chiến dịch Sa Thầy (1966), chủ yếu là lương thực, thực phẩm, đạn dược tiêu thụ chỉ vài chục tấn, chủ yếu là đạn bộ binh và đạn pháo mang vác.

Trong Kháng chiến chống Mỹ

Sang thập niên 70 của Thế kỷ 20, trong Kháng chiến chống Mỹ, các chiến dịch tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô ngày càng lớn, sử dụng binh khí kĩ thuật ngày càng nhiều, nhu cầu bảo đảm vật chất hậu cần lớn, tỉ lệ giữa các loại vật chất đã thay đổi; đạn dược chiếm tỉ lệ cao hơn, khoảng 20%... phương tiện cơ giới sử dụng trong chiến dịch ngày càng nhiều, lượng xăng dầu cũng tiêu thụ nhiều, chiếm tỉ lệ khoảng 10%. Vật chất hậu cần bảo đảm cho Quân đội trên các chiến trường chủ yếu dựa vào các nguồn bảo đảm của hậu phương lớn miền Bắc chi viện (trong đó có nguồn viện trợ của nước ngoài) và khai thác tại chỗ ở chiến trường (trong vùng giải phóng và vùng địch tạm kiểm soát).

Về bảo đảm sinh hoạt, trong những chiến dịch thời kì đầu Kháng chiến chống Mỹ, việc bảo đảm sinh hoạt cho bộ đội gặp rất nhiều khó khăn, hầu hết vật chất bảo đảm cho nhu cầu sinh hoạt đều phải dựa vào khai thác tại chiến trường. Bộ đội phải tham gia sản xuất, trồng cây lương thực (chủ yếu là sắn). Đến những năm 70 của Thế kỷ 20, khi hệ thống giao thông vận tải chiến lược và chiến dịch phát triển, việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho các đơn vị lực lượng vũ trang thuận lợi hơn.

Về bảo đảm quân y, trong một số chiến dịch tiến công quy mô nhỏ (lực lượng 2-3 trung đoàn bộ binh hoặc đến sư đoàn bộ binh tăng cường), tỉ lệ thương binh trung bình chiếm 8,5-8,9% quân số chiến đấu. Trong một số chiến dịch tiến công quy mô từ 2 sư đoàn bộ binh đến quân đoàn hoặc hơn, tỉ lệ thương binh trung bình chiếm 11-11,5% quân số chiến đấu. Lực lượng quân y chiến dịch thường gồm bệnh viện dã chiến, đội điều trị, đội phẫu thuật, đội vệ sinh phòng dịch, đội chuyển thương. Giai đoạn đầu cuộc kháng chiến, việc chuyển thương trong các chiến dịch hoàn toàn dựa vào dân công và thanh niên xung phong; ở chiến trường B2 đã sử dụng xe đạp thồ để chuyển thương binh. Khi mở được đường ô tô, việc chuyển thương chủ yếu dựa vào xe ô tô vận tải; một số chiến trường tổ chức cải tiến xe ô tô vận tải để chuyển thương binh.

Về công tác vận tải, thời gian đầu hoàn toàn dựa vào vận tải bộ, sau đó kết hợp với vận tải thô sơ (xe đạp thồ, thuyền). Hậu cần ở các chiến trường tổ chức các tiểu đoàn xe đạp thồ để chuyển thương binh, một số chiến trường sử dụng vận tải đường sông, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long. Khi mạng đường chiến dịch phát triển, vận tải cơ giới trở thành chủ yếu, nhưng ở một số tuyến hậu cần vẫn kết hợp vận tải cơ giới với vận tải thô sơ, sức người, vd: trong Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975), hậu cần chiến dịch sử dụng 3.939 ô tô, nhưng vẫn phải sử dụng 1.756 xe đạp thồ và huy động 656 ghe, xuồng gắn máy và ca nô để vận chuyển vật chất tới các hướng tác chiến.